Mã số: 0034 Quyết định giám đốc thẩm số 12/2008/HS-GĐT

11:11:00 22/11/2013

Quyết định giám đốc thẩm số 12/2008/HS-GĐT

ngày 24 tháng 7 năm 2008 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 

…..

Ngày 24-7-2008, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án hình sự đối với:

Nguyễn Kim Oanh sinh năm 1976; đăng ký nhân khẩu thường trú tại số 6 Phan Bội Châu, Phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; tạm trú tại số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, Quận 1 , Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa 12/12, cử nhân Luật; con ông Nguyễn Thế Sự (đã chết) và bà Trần Thị Hồng; bị bắt giam từ ngày 25-10-2002.

Trong vụ án còn có 20 bị cáo khác bị kết án về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Tổ chức đánh bạc”, “Đánh bạc”, “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”,”Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” không bị kháng nghị.

 

NHẬN THẤY:

 

Từ năm 1999 đến năm 2000, Nguyễn Kim Oanh đã tham gia cùng Nguyễn Thị Hạnh (chị ruột) thực hiện hành vi đánh bạc (cá độ bóng đá) với tổng số tiền 187.000.000 đồng và tham gia mua bán trái phép chất ma túy cùng Chung Quốc Minh với số lượng là 8400 viên ma túy tổng hợp (methamphetamin), có trọng lượng là 2.394,89 gam.

Nguyễn Kim Oanh và Chung Quốc Minh sống với nhau như vợ chồng từ tháng 3-2000đến cuối năm 2000 tại căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, Quận 1 , Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây viết tắt là căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung). Trong thời gian này, Nguyễn Kim Oanh đã phụ giúp Minh việc bán lẻ ma túy tại căn nhà này và quản lý tiền bán ma túy, Oanh đưa cho Minh tiền gốc để mua tiếp, còn tiền lãi thì Oanh và Chung chi tiêu sinh hoạt chung. Căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là do Nguyễn Văn Lung thuê từ năm 1999 của ông Nguyễn Dọn. Cuối năm 1999, ông Dọn bán căn nhà này cho ông Đào Duy Dinh. Đến tháng 4/2002, Oanh mua lại căn nhà này của ông Đào Duy Dinh.

Tại Quyết định khởi tố bị can số 230 ngày 01-11-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra-Bộ công an đã quyết định khởi tố Nguyễn Kim oanh về các tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Đánh bạc”.

Tại Lệnh kê biên tài sản số 48/C16C3 ngày 12-12-2002, Cơ quan cảnh sát điều tra- Bộ công an đã ra lệnh kê biên căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung của Nguyễn Kim Oanh.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194; điểm b khoản 2 Điều 248; khoản 2 Điều 46; Điều 50 Bộ luật hình sự; xư phạt Nguyễn Kim Oanh tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 03 năm tù về tội “Đánh bạc”; tổng hợp hình phạt chung của hai tôi là tù chung thân. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự tuyên tịch thu căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghé, Quận 1 , Thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Kim Oanh với lý docawn nhà này là nơi Oanh cất giữ và mua bán ma túy, đồng thời là nơi giao nhận tiền cá độ bóng đá và áp dụng khoản 5 Điều 194; Khoản 3 Điều 248 Bộ luật hình sự buộc Nguyễn Kim Oanh nộp tiền phạt, tiền thu lời bất chính tổng cộng là 200.000.000 đồng; ngoài ra còn tuyên tịch thu của Nguyễn Kim oanh 100 cây vàng, 76.000.000 đồng, 5.126 USD, 01 xe máy hiệu@, 02 điện thoại di động và một số tài sản khác có giá trị không lớn để xung quỹ Nhà nước.

Ngày 21-5-2004, Nguyễn Kim Oanh có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt, đề nghị xem xét lại việc tịch thu tiền, vàng, căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung.

Tại bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT ngày 5-10-2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên bản án sơ thẩm, với lý do: Bản án sơ thẩm đã đánh gia đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Nguyễn Kim Oanh và xử phạt bị cáo tù chung thân là thỏa đáng. Bị coa không có căn cứ chứng minh nguồn tài sản bị tịch thu là hợp pháp, nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên tịch thu là đúng.

Tại kháng nghị tái thẩm số 02/QĐ-VKSTC-V3 ngày 25-3-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theot hủ tục tái thẩm, hủy phần quyết định tịch thu toàn bộ căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghe, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh Bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004 và bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT ngày 5-10-2004 để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật, với lý do có tình tiết mới là Nguyễn Kim Oanh đã có chồng là David A.Ong và tiền mua căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là do chồng của Oanh gửi từ Mỹ về.

Tại Quyết định rút quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKSTC-V3 ngày 10-7-2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định rút kháng nghị tía thẩm số 02/QĐ-VKSNDTC-V3 ngày 25-3-2008.

Tại kháng nghị giám đốc thẩm số 16/QĐ-VKSNDTC-V3 ngày 10/7/2008, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, hủy phần quyết định tịch thu toàn bộ căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghe, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh của Bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004 và Bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT ngày 5-10-2004 và đình chỉ vụ án về phần này, với lý do: Số tiền để mua nhà số8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghe, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh do chồng của Nguyễn Kim Oanh là David A.Ong gửi từ Mỹ về trong thời kỳ hôn nhân, nên đó là tài sản chung của vợ chồng và trong thời gian Oanh thực hiện hành vi phạm tội, thì căn  nhà đó thuộc quyền sở hữu của Oanh; việc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định tịch thu toàn bộ căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghe, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh với lý do căn nhà đó là nơi thực hiện tội phạm theo điều 41 BLHS là không đúng.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

         

NHẬN THẤY:

 

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì Nguyễn Kim Oanh thuê o1 phòng của căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghe, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng thuê toàn bộ căn nhà. Tháng 4-2002, Oanh ký hợp đồng mua bán căn nhà này với ông Dinh tại Phòng công chứng số 1 thành phố Hồ Chí Minh. Nguồ tiền mua nhà theo lời khai của Oanh tại cơ quan điều tra là do David A.Ong (chồng của Oanh) gửi từ Mỹ về 25.000 USD vào khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4-2002  qua chị gái Oanh là Nguyễn Thị Hiền, cộng với số tiền các anh chị của Oanh cho và Oanh có riêng 10.000.000 USD tiết kiệm từ số tiền hàng tháng David A.Don gửi về cho Oanh tiêu. Với các tài liệu có trong hồ sơ  thì việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng Điều 41 BLHS tuyên tịch thu căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung là chưa đủ căn cứ. Để quyết định đúng đối với căn nhà này thì cần điều tra làm rõ những vấn đề sau đây:

- Có đúng Nguyễn Kim Oanh mua căn nhà 8A/G4 Thái Văn Lung vào thời điểm như đã thể hiện trong hợp đồng mua bán nhà ở không? Hay căn nhà đã được mua bán từ trước và đến tháng 4-2002 mới hoàn thiện các thủ tục pháp lý? Giá tiền mua bán căn nhà số 8A/G4 Thái văn Lung là 100.000.000 đồng, nhưng theo lời khai của Nguyễn Kim Oanh tại giai đoạn điều tra cũng như khi Viện kiểm sát nhân dân tối cao lấy lời khai sau khi xét xử phúc thẩm thì Oanh mua căn nhà đó với giá 170 cây vàng (tương đương 750.000.000 đồng). Người bán nhà cho Oanh là ông Đào Duy Dinh có lời khai ngày 28-4-2004 (trước khi xét xử sơ thẩm) thì ông Dinh bán căn nhà đó cho Oanh với giá là 269 cây vàng.

          - Về nguồn tiền để mua căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung thì theo lời khai của Nguyễn Kim Oanh khi Viện Kiểm Sát nhân dân lấy lời khai (sau khi xét xử phúc thẩm) tháng 6-2000, David A.Ong có gửi 100.000 USD thông qua chị Nguyễn Thị Hiền là chị gái Oanh mang từ Mỹ về Việt Nam để oanh mua nhà. Lời khai của Oanh mâu thuẫn với lời khai tại giai đoạn điều tra (trước khi xét xử sơ thẩm) là tiền mua nhà do David gửi về cộng với tiền của các anh chị Oanh cho và tiền riêng của Oanh và David gửi tiền về vào khoảng tháng 3, 4 năm 2002? Cần làm rõ số tiền 100.000 USD có đúng được chị Hiền mang về Việt Nam hay không? Tờ khai hải quan về số tiền này? Tại thời điểm tháng 6-2000 pháp luật quy định như thế nào về việc đưa ngoại tệ vào Việt Nam.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 279,, khoản 3 Điều 285 Bộ luật tố tụng hình sự.

 

 

QUYẾT ĐỊNH

 

1. Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 2341/HSPT ngày 5-10-2004 của Tòa phúc thẩm tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ chí Minh về phần quyết định bác kháng cáo xin trả lại tài sản  bị tịch thu là căn nhà số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghe, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Kim Oanh và hủy bản án hình sự sơ thẩm số 694/HSST ngày 10-5-2004 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về quyết định xử lí vật chứng: “Tài sản kê biên là 01 căn nhà 4 tầng số 8A/G4 Thái Văn Lung, phường Bến Nghe, quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh, diện tích 98m2. Căn nhà này Nguyễn Kim oanh thuê từ đầu năm 1999 sang đầu năm 2002 Oanh mua thuộc quyền sở hữu của Oanh, căn nhà này là nơi cất giữ, mua bán chất ma túy đồng thời là nơi giao nhận tiền cá đọ bóng đá; do đó cần tịch thu sung quỹ Nhà nước, theo Điều 41 Bộ luật hình sự để điều tra lại;

2. Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo thủ tục chung.

 

Đang xử lý...

.