Mã số 40: Quyết định giám đốc thẩm số 24/2013/QĐ-HĐTP

12:01:00 08/01/2010

Quyết định giám đốc thẩm số 24/2013/QĐ-HĐTP ngày 22 tháng 4 năm 2013 về vụ án dân sự Tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa nguyên đơn bà Hồ Thị Thuyền và bị đơn chị Nguyễn Thị Phương Thanh

HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 

Ngày 22 tháng 4 năm 2013, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu nhà” giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Thuyền sinh năm 1926;

Địa chỉ: 180-1709 Rochester At. Ottawa Otario, K1Z-7S4 Canada.

Bà Thuyền uỷ quyền cho anh Nguyễn Đại Hùng, chị Nguyễn Thị Thanh Thủy và chị Nguyễn Thị Hội Yên tham gia tố tụng (văn bản uỷ quyền ngày 19/10/2009 và 27/01/2010).

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Phương Thanh sinh năm 1956; trú tại 112/1284 (C3) cư xá Lam Sơn, Nguyễn Oanh, phường 17, quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1.      Anh Nguyễn Đại Hùng sinh năm 1961; trú tại 112/1284 (C3), Nguyễn Oanh, phường 17, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

2.      Bà Lê Thị Xướng sinh năm 1964; trú tại 1/36 Trần Văn Đang, phường 9, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

3.      Anh Phùng Kim Hùng sinh năm 1956; trú tại 173 đại lộ Bình Dương, phường Phú Thọ, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

4.      Ông Nguyễn Ky sinh năm 1924; trú tại 180-1709 Rochester At. Ottawa Otario, K1Z-7S4 Canada.

Ông Nguyễn Ky ủy quyền cho anh Nguyễn Đại Hùng, chị Nguyễn Thị Thanh Thủy, chị Nguyễn Thị Hội Yên tham gia tố tụng (Văn bản uỷ quyền ngày 14/10/2010)

5.      Ông Huỳnh Ngọc Giầu sinh năm 1969; trú tại 112/1284 (C3) Cư xá Lam Sơn, Nguyễn Oanh, phường 17, quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY:

Tại đơn khởi kiện ngày 12/10/2009 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Hồ Thị Thuyền trình bày:

Căn nhà số 112/1284 (C3) khu cư xá Lam Sơn, đường Nguyễn Oanh, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc là của bà và ông Nguyễn Ky mua của chính quyền chế độ cũ từ năm 1970. Sau năm 1975, gia đình bà tiếp tục sinh sống tại căn nhà này, do căn nhà nằm trong khu cư xá sĩ quan Lam Sơn của chế độ cũ, nên Nhà nước quản lý.

Năm 1993, ông bà cùng 04 người con của ông, bà xuất cảnh sang Canada. Khi đó, căn nhà được giao lại cho anh Nguyễn Đại Hùng (con của ông, bà) quản lý, sử dụng. Năm 1996, anh Hùng được mua hóa giá nhà, tiền để anh Hùng mua nhà hóa giá là của ông, bà và anh Hùng đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Mặc dù nhà đứng tên anh Hùng, nhưng trong gia đình các vấn đề liên quan đến căn nhà đều do ông, bà quyết định, vì nhà này do ông, bà bỏ tiền ra mua hóa giá.

Năm 1998, được sự đồng ý của ông, bà, anh Hùng đã làm thủ tục chuyển nhượng cho chị Nguyễn Thị Phương Thanh (con của ông, bà), việc chuyển nhượng chỉ thực hiện trên giấy vì không có việc giao tiền, giao nhà, chị Thanh chỉ là người được đứng tên giúp ông, bà. Nay ông, bà có ý định về Việt Nam sinh sống, nên yêu cầu chị Thanh trả lại căn nhà này để ông, bà sử dụng, nhưng chị Thanh không thực hiện việc giao nhà. Vì vậy, ông, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án xác định quyền sở hữu căn nhà là của ông, bà.

Bị đơn là chị Nguyễn Thị Phương Thanh trình bày: Về quan hệ gia đình, nguồn gốc căn nhà 112/1284 Nguyễn Oanh đúng như phía nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, năm 1996 khi được Nhà nước cho làm thủ tục mua hóa giá căn nhà, chị để anh Nguyễn Đại Hùng đứng tên mua hóa giá, toàn bộ tiền mua nhà là của chị. Năm 1998, chị và vợ chồng anh Hùng đã thỏa thuận lập hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất, theo đó vợ chồng anh Hùng, chị Xướng chuyển nhượng nhà đất nói trên cho chị, với giá là 200.000.000 đồng. Hợp đồng này có công chứng, sau đó chị đã làm các thủ tục sang tên, trước bạ và đứng tên chủ sử dụng. Như vậy, việc chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng anh Hùng, chị Xướng với chị là hoàn toàn hợp pháp và thỏa thuận chuyển nhượng đã hoàn tất, chị là chủ sở hữu hợp pháp của khối tài sản này. Do vậy, chị không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Ky và anh Nguyễn Đại Hùng: thống nhất với nội dung trình bày của bà Thuyền.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 983/2010/DSST ngày 12/7/2010, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Hồ Thị Thuyền và yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, anh Nguyễn Đại Hùng;

Xác định nhà đất tọa lạc tại số 112/1284 (C3) Cư xá Lam Sơn, đường Nguyễn Oanh, phường 17, quận Gò Vấp có nguồn gốc thuộc sở hữu của gia đình ông Nguyễn Ky, bà Hồ Thị Thuyền bỏ tiền ra mua hóa giá đứng tên anh Hùng vào năm 1996 và được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyển sử dụng đẩt ở vào năm 1998.

Chấp nhận yêu cầu của bà Thuyền, anh Hùng về việc đồng ý giữ nguyên việc chuyển tên chủ quyển căn nhà cho chị Nguyễn Thị Phương Thanh; Chị Thanh có nghĩa vụ hoàn trả giá trị căn nhà cho bà Thuyền, ông Ky, số tiền là 6.620.000.000 đồng; ông Ky, bà Thuyền, anh Hùng, chị Xướng có trách nhiệm bàn giao căn nhà trên cho chị Thanh.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, trách nhiệm dân sự do chậm thi hành án và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 22/7/2010, chị Nguyễn Thị Phương Thanh kháng cáo.

Tại bản án phúc thẩm dân sự số 259/2010/DSPT ngày 18/11/2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Bác kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Sau khi xét xử phúc thẩm, chị Nguyễn Thị Phương Thanh khiếu nại.

Tại Quyết định số 479/2011/KN-DS ngày 28/7/2011, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 259/2010/DSPT ngày 18/11/2010 của Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 983/2010/DSST ngày 12/7/2010 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự đều thống nhất xác định, năm 1993 ông Nguyễn Ky và bà Hồ Thị Thuyền xuất cảnh sang định cư tại Canada cùng với một số người con chung của ông, bà. Tuy nhiên, Tòa án các cấp chưa thu thập các tài liệu liên quan đến thủ tục xuất cảnh của gia đình ông Ky, bà Thuyền có những ai đã xuất cảnh năm 1993 và còn lại các thành viên nào tiếp tục ở tại căn nhà tranh chấp.

Ngoài ra, theo trình bày của anh Phùng Kim Hùng (là chồng của chị Thanh) thì, “...năm 1995, trong căn nhà C3, Cư xá Lam Sơn có sự mâu thuẫn, xích mích giữa vợ chồng anh Nguyễn Khánh Phước và vợ chồng anh Nguyễn Đại Hùng. Theo đề nghị của anh Hùng, vợ chồng anh phải chuyển vào trong căn hộ trên, đồng thời hòa giải sự mâu thuẫn giữa anh, em vợ...”. Như vậy, trước thời điểm Nhà nước bán hóa giá, thì có 03 hộ gia đình cùng sinh sống tại căn nhà này. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm cũng chưa thu thập chứng cứ để làm rõ, ở thời điểm mua hóa giá nhà thì những hộ gia đình, cá nhân nào đang sinh sống tại căn nhà C3, Cư xá Lam Sơn để xác định những ai được quyền mua căn nhà nói trên theo quy định của pháp luật là thiếu sót.

Theo lời khai của bà Thuyền, anh Hùng, chị Xướng và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác về phía bà Thuyền, thì toàn bộ số tiền mua hóa giá căn nhà 112/1284 là do bà Thuyền gửi về để anh Hùng đứng tên mua.

Tại phiên tòa phúc thẩm, chị Thanh cho rằng, tiền mua hóa giá căn nhà là do chị bỏ ra để anh Hùng đứng tên mua nhà. Anh Hùng không phản đối phần trình bày của chị Thanh, nhưng lại cho rằng mẹ của anh là người gửi tiền về mua.

Bà Thuyền có xuất trình tập phiếu chuyển tiền, thể hiện, từ năm 1994 đến 2005 bà đã nhiều lần chuyển tiền cho chị Thanh với số tiền lớn.

Tại Biên bản thỏa thuận tài sản riêng ngày 03/3/2003, chị Thanh và anh Hùng thừa nhận, “..nhà C3 (112/1284) Nguyễn Oanh là đồng chủ sở hữu của anh, chị, là tài sản có trong thời kỳ hôn nhân; và lý do là căn nhà này được mua từ tiền của gia đình bên vợ (chị Nguyễn Thị Phương Thanh) cho riêng...”.

Trong trường hợp này cần phải thu thập thêm chứng cứ để làm rõ, có hay không việc bà Thuyền chuyển tiền về cho chị Thanh để chị Thanh đưa cho anh Hùng mua nhà hóa giá theo như trình bày của bà Thuyền và vợ chồng anh Hùng. Trường hợp có đủ cơ sở để xác định lời khai của bà Thuyền và vợ chồng anh Hùng về việc bà Thuyền gửi tiền về mua nhà và để cho chị Thanh đứng tên là có thật, thì cần phải xác định công sức của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết vụ án mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ để làm rõ các vấn đề nêu trên, nhưng lại xác định toàn bộ tiền mua hóa giá nhà là của vợ chồng bà Thuyền, ông Ky, đồng thời buộc chị Thanh trả lại giá trị căn nhà cho bà Thuyền, ông Ky là không đủ căn cứ.

Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 297; Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội).

QUYỂT ĐỊNH:

1. Huỷ bản án phúc thẩm số 259/2010/DSPT ngày 18/11/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 983/2010/DSST ngày 12/7/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp quyền sở hữu nhà” giữa nguyên đơn là bà Hồ Thị Thuyền với bị đơn là chị Nguyễn Thị Phương Thanh và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/545500/3377352

 

Đang xử lý...

.